Linh chi được biết đến trên 4000 năm với một lịch sử phong phú. Linh chi có tên khoa học là Ganoderma lucidum. Tại Trung Quốc, nó có tên là Ling Zhi và người Nhật gọi là Reishi.
Ganoderma lucidum là tên được ghép từ hai từ của tiếng Hy Lạp và Latin. Ganoderma trong tiếng Hy Lạp được ghép từ “Gano: nghĩa là sáng chói và derma ghĩa là làn da”. Còn trong tiếng Latin, “lucidum có nghĩa là sáng bóng hoặc rực rỡ. Trong tiếng Trung Quốc, “Ling Zhi có nghĩa là Tiên thảo và Bất Tử hay Trường Sinh.
Vào triều đại nhà Nguyên (năm 1280 - 1368 Công Nguyên), linh chi được sử dụng trong nghệ thuật in, vẽ, chạm khắc.
Linh chi được đề cập đầu tiên trong việc sử dụng như một dược liệu trường sinh vào thời đại Tần Thủy Hoàng – vị Vua đầu tiên của Trung Quốc. Sau đó, việc sử dụng linh chi lan rộng sang các nước khác: Nhật, Hàn Quốc,… Tuy nhiên, chi phí rất cao vì nguồn linh chi rất hiếm trong tự nhiên.
Trong linh chi, có hơn 400 dưỡng chất được phát hiện với trên 14 tác dụng được tìm thấy và chứng minh.
Có hơn 300 công trình nghiên cứu về nấm linh chi và con số tiếp tục tăng vì những tính chất ưu việt trong một số bệnh mang tính xu thế: tim mạch, nội tiết, đặc biệt là ung thư.
Qua hơn 200 nghiên cứu về tác dụng phòng ngừa và chống ung thư của nấm linh chi, có thể thấy linh chi có thể là một lời hứa hẹn cho công cuộc chống lại căn bệnh này trong tương lai.